Xét về mặt từ nguyên, “tam gia” trong “Phú ba đời, khó ba đời” trái nghĩa với từ “tam tộc” (nghĩa là: đời cha, đời con). , cuộc đời của cháu trai). Tuy nhiên, Từ điển thành ngữ, tục ngữ chỉ giải thích chứ chưa thấy phần giải thích nghĩa.
Đầu tiên, hãy học câu “Không ai giàu ba họ, không ai nghèo ba đời” (Biến Ai giàu ba họ, ai khó ba đời?), chúng tôi thử tra cứu trong từ điển: Về nghĩa từ vựng, tất cả các cuốn từ điển tiếng Việt chúng tôi hiện có đều giải thích “tam tộc” là “ba họ”, gồm: họ cha, họ mẹ, họ vợ và họ vợ chẳng hạn. Trụ di tam – tộc.
Trong khi đó, hầu hết các từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam chỉ sưu tầm, giải thích tục ngữ mà không xem “ba họ” nghĩa là gì. Riêng tư từ từ điển tục ngữ việt nam (Nguyễn Đức Dương – NXB Tổng hợp TP.HCM, 2010) và Tổng hợp tục ngữ của Lê Văn Hòe (Quốc Học Thư -1952) được giải thích rõ ràng như sau:
Nguyễn Đức Dương: “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời: Tôi chưa thấy ai giàu cả ba đời; Ba đời tôi chưa thấy ai nghèo cả. Hay ông nhắn nhủ người ta đừng vội buồn khi nghèo, nhưng cũng đừng vội mừng khi giàu (vì giàu nghèo ở đời không phải là điều bất biến)”. Dòng chữ của cuốn sách: “Ba tính từ: Họ của tôi[sic], của bố và vợ; Ba thế hệ: Đời tôi, đời con cháu tôi.
Lê Văn Hòe: “Giàu có ba họ, nghèo có ba đời: cha là họ cha, họ mẹ là họ vợ. Ba đời là đời cha, đời con. con cái và đời cháu. Không ai giàu ba họ và không ai nghèo ba đời, tức là giàu nghèo không riêng ai, có lúc giàu lúc nghèo, có lúc giàu khi nghèo. nghèo họ trở nên tiết kiệm và trở nên nghèo.. phải giàu” Vậy có gì sai?
Thực ra, “tam gia” trong “Con nhà giàu ba họ…” có nghĩa là “ba thế hệ”.
“Ba họ” là bản dịch của hai từ “ba bộ tộc”. Nhưng “ba chủng tộc,” được từ nguyên học (Thương Vụ Báo Chí Xuất Bản – Trung Hoa Dân Quốc – Tùy Biên soạn kèm theo ấn bản 1940) giải thích: “Phụ thân, con cháu là tam tộc” (Phụ thân kính tam tộc – 父, 子, 孫為三族) ). Về “cửu tộc” (chín họ), sách này viết tiếp: “Các họ hàng từ Cao An đến Huyền Tôn là chín tộc” (Cao Tổ chi Huyền Tôn chi thân vi Cửu tộc – 高祖至玄孫之親為九族) .[*]
Từ điển tiếng Trung lớn (Chủ biên Lã Trúc Phong – Xã Đại Từ Điển – 1993) giải thích nghĩa “tam tộc” (ba họ) như sau:
1 – Phụ tử, tôn tử (Phụ tử, tôn tử 謂父, 子, 孫).
2 – Họ cha, họ mẹ, họ vợ (Tổ phụ, họ mẫu, thiếp – 謂父族, 母族, ).
3 – Cha mẹ, anh em, vợ con
Như vậy, xét về nghĩa từ nguyên, chúng ta có lý do để cho rằng, “tam gia” trong “Giàu ba họ, nghèo ba đời” là từ trái nghĩa với từ “tam tộc”, nghĩa là: đời cha, đời con. , cuộc đời tôi.
Xét về mặt ngữ dụng, trong tiếng Việt, “tam tộc” (ba họ) được hiểu là “ba đời”; “Cửu tộc” (chín họ) được hiểu là “chín đời” không có gì lạ. Ví dụ:
từ điển tiếng việt (Hội Khai sáng Tiến bộ), hoặc Từ Điển Tiếng Việt Mới (Thanh Nghị) đều ghi “cửu tộc” là “Cửu họ, chín đời: 1 ngựa (cao tổ). 2 Ông (ông). 3 Ông (tổ). 4 Cha (phụ). 5 Ta (tự). 6 Con (chết). 7 Cháu (kính). 8 Chắt (Teng Ton). 9 tí (thuyền hon)”.
Vụ án Lệ Chi Viên Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “Ngày thứ mười sáu, giết Hành khiển Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, tội cập tam phẩm [十六日,殺行遣阮廌并妻阮氏路,罪及三族]. Bản dịch của Hoàng Văn Lâu (Hà Văn Tấn hiệu đính – NXB KHXH – 1998) thì hai chữ “tam tộc” được dịch là “ba họ”: “Ngày 16, giết Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ là Nguyễn Thị Kìa. , bắt giữ ba người họ.” Cách dịch này gây khó khăn cho việc biết chính xác “ba tính từ” này có nghĩa nào trong ba nghĩa.
Tuy nhiên, trong bản dịch của Cao Huy Giu (Đào Duy Anh chủ biên – NXB Khoa học xã hội – 1971) hai chữ “tam tộc” được dịch rõ ràng là “ba đời”: “Ngày 16, giết vợ chồng Hành Nguyễn Trãi. của ông. Có thể Nguyễn Thị Lộ, ba đời bị giết”. Dĩ nhiên, “ba đời” ở đây chỉ có thể hiểu là: đời cha, đời con, đời cháu. (tiếp tục)…
Theo Huy Phạm (st)
Cảm ơn bạn đã đọc bài viết ‘Ba họ’ trong câu ‘Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời’ là ai ? . Đừng quên truy cập Chaolong TV kênh trực tiếp bóng đá số 1 Việt Nam hiện nay để có những phút giây thư giãn cùng trái bóng tròn !