Trong số 54 dân tộc anh em ở Việt Nam, dân tộc này đông thứ hai sau dân tộc Kinh, làm thủy lợi giỏi, trang phục truyền thống đơn giản, ít họa tiết.
Theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/2019, Việt Nam có hơn 96,2 triệu người. Dựa theo Cổng thông tin Ủy ban Dân tộcDân tộc Kinh có 82 triệu người, chiếm hơn 86% dân số cả nước.
Câu 1: Dân tộc nào đông dân thứ hai ở Việt Nam?
Đó là dân tộc Tày
Dựa theo Cổng thông tin Ủy ban Dân tộcDân tộc Tày hay còn gọi là Thổ, dân số hơn 1,84 triệu người (2019). Tiếng Tày thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái (ngữ hệ Thái – Ka Đai). Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể là từ nửa sau thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.
Dân tộc Thái có dân số đông thứ ba ở Việt Nam sau dân tộc Kinh và Tày với khoảng 1,82 triệu người; tiếp đến là người Mường với khoảng 1,45 triệu người.
Một nét sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Tày. Hình ảnh: Báo Hà Giang
Câu 2: Người Tày sống chủ yếu ở vùng nào?
Người Tày sống chủ yếu ở vùng đông bắc
Hiện nay, người Tày sinh sống chủ yếu ở các tỉnh Đông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái.
Bản làng của người Tày thường nằm dưới chân núi hoặc ven suối. Tên làng thường đặt theo tên đồi, ruộng, sông. Mỗi làng có từ 15 đến 20 nóc nhà, làng lớn lại chia thành nhiều làng nhỏ. Nhà sàn, nhà đất và một số vùng biên giới đã có nhà che. Ở nhà, có sự phân biệt giữa phòng nam bên ngoài và phòng nữ bên trong.
Trang phục Thái Lan. Hình ảnh: Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Kạn
Câu 3: Nhà sàn là kiểu nhà ở truyền thống của người Tày. Bạn đo kích thước của một ngôi nhà bằng những đơn vị nào?
Người Tây tính diện tích nhà theo số cột chính
Dựa theo Địa lý Thái NguyênNgười Tày thích ở thành bản đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà. Nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có sườn làm theo kiểu chái từ 4-7 hàng cột. Nhà hai hoặc bốn mái lợp ngói, rơm hoặc lá cọ. Xung quanh nhà lợp bằng ván gỗ hoặc lợp tranh.
Theo tài liệu Cảnh quan văn hóa các dân tộc Việt Nam (Nxb Giáo dục, 1997), trước đây rừng còn nhiều nên người Tày làm nhà bằng các vật liệu lấy từ rừng như tre, nứa, gỗ, lá cọ. Loại nhà sàn có cột chôn là loại hình phổ biến.
Sau năm 1960, khi hợp tác xã nông nghiệp được thành lập, người dân có thể cất nhà sàn bằng đất. Sàn nhà để người ở, gác xép dùng để phơi, cất một số lương thực, thực phẩm, sàn nhà để chăn nuôi gia súc, gia cầm, củi đốt, nông cụ, cối giã, dệt vải.
Người Tày không tính kích thước ngôi nhà theo số gian mà tính theo cột chính, như nhà 8 cột, 10 cột, 12 cột. Sơ đồ mặt bằng của ngôi nhà có hình chữ nhật hoặc gần như hình vuông, trong đó hình dạng gần với hình vuông là phổ biến.
Nhà kiểu người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên. Hình ảnh: Cổng thông tin điện tử Thái Nguyên
Câu 4: Hoạt động sản xuất nông nghiệp nào của người Tày chiếm vị trí hàng đầu?
Đó là canh tác lúa nước.
Ruộng nước chiếm vị trí chủ đạo trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của người Tày. Ở những địa phương không đủ nước canh tác, người Tày trồng lúa cạn ở vùng cao.
Người Tày nổi tiếng giỏi thủy lợi. Từ xa xưa, họ đã biết áp dụng nhiều biện pháp “dẫn nước vào ruộng”; mang nước về tưới cho ruộng lúa như đào kênh; xây ống dẫn nước hoặc máng xối, xây đập; guồng nước tự động. Họ đã quen thưởng thức cơm trên ruộng trên những chiếc máng gỗ; Gọi là thả rông rồi dùng gà trống gánh lúa về nhà.
Bánh chưng từ lâu là món ăn đón Tết đặc trưng của người Tày ở vùng cao Bắc Kạn. Hình ảnh: Cổng thông tin điện tử Bắc Kạn
Ngoài lúa nước, người Tày còn trồng lúa cạn, hoa màu và cây ăn quả. Phát triển chăn nuôi với nhiều loại gia súc, gia cầm; nhưng phương pháp nuôi thả vẫn còn khá phổ biến cho đến nay. Hàng thủ nhà được chú ý; Nổi tiếng nhất là nghề đan thổ cẩm với nhiều hoa văn đẹp và độc đáo.
Nguồn thức ăn của người Tày khá phong phú, chủ yếu là sản phẩm từ thực vật và chăn nuôi. Trước đây, người Tày ăn gạo tẻ là chính, gạo tẻ ít ăn, khoai, sắn, đậu, bí…; Nó thường được sử dụng để nấu cơm nhồi hoặc chăn nuôi gia súc.
Câu 5: Loại nhạc cụ nào sau đây có mặt trong hầu hết các hoạt động văn hóa, nghệ thuật của người Tày?
nó là nam tính
Trong đời sống của người Tày, văn học truyền miệng chiếm vị trí quan trọng nhất với các thể loại như thần thoại, cổ tích, truyện cười. Các bài hát phổ biến của Tày bao gồm trượt, thơ nóng và sau đó là hát. Dân tộc Tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, lượn gió, phuổi pắc, phuối giữa, ven eng.
Cùng với tiếng hát, đàn tính là một bộ phận không thể thay thế; trong đời sống văn hóa của cộng đồng. Đàn guitar gồm có 3 bộ phận chính là bầu đàn, cần đàn và dây đàn. Bộ cộng hưởng là một bộ khuếch đại làm bằng nửa quả bầu khô. Do đó, kích thước tùy thuộc vào quả bí lớn nhỏ khác nhau. Để có tiếng vang và âm sắc chuẩn, người ta thường chọn những quả bầu tròn và dày.
Cần đàn làm bằng gỗ, có cạnh xuyên qua quả bầu; Đầu còn lại cong thành hình lưỡi liềm gọi là đầu khê. Một cây đàn tính then thường có ba dây, tượng trưng cho cha, mẹ và quê hương.
Dựa theo
Cảm ơn bạn đã đọc bài viết Dân tộc nào đông dân thứ hai Việt Nam? . Đừng quên truy cập Chaolong TV kênh trực tiếp bóng đá số 1 Việt Nam hiện nay để có những phút giây thư giãn cùng trái bóng tròn !