Trong ngôn ngữ nói, sức mạnh của nó là nhờ vào hệ thống phi ngôn ngữ đi kèm như cử chỉ, hành động, thanh điệu cao thấp…
Với ngôn ngữ viết, để hỗ trợ cho nội dung bài viết, người sáng tạo văn bản vẫn chủ yếu dựa vào cách dùng từ, đặt câu để diễn đạt điều mình muốn diễn đạt một cách hiệu quả. Văn học nói chung, đặc biệt là thơ ca, sự thành công trong một tác phẩm thường được quyết định bởi việc sử dụng một cách tinh tế và nhuần nhuyễn một dấu câu nào đó, dấu chấm lửng (…) là một trong những trường hợp như vậy.
Có khá nhiều nhà thơ đã sử dụng rất hiệu quả dấu chấm lửng (…) trong bài thơ của mình. Trước hết, chúng sử dụng dấu chấm lửng trong trường hợp ngôn ngữ phải cúi đầu “bất lực” trước tình cảm, cảm xúc. Chính khi những câu thơ, câu thơ chan chứa những cảm xúc như nhớ nhung, hụt hẫng… thì cảm xúc ấy lại trào dâng và dựa vào dấu chấm lửng để nói hộ cho em những cảm xúc bất tận ấy. Trong Bài ca du kích, Hồ Chí Minh mở đầu và kết thúc như sau:
Ồ ồ ồ ồ…
Ồ ồ ồ ồ…
Bao nhiêu tuổi?
đứa trẻ nào
Lính nào?
Người nào?
người đàn ông nào
Đúng là phụ nữ!
…….
Ồ ồ ồ ồ…
Ồ ồ ồ ồ…
Du kích ngày càng mạnh
Du kích ngày càng phát triển.
Ồ ồ ồ ồ…
Ồ ồ ồ ồ…
Bằng việc sử dụng động từ mạnh “o” và kết hợp với dấu chấm lửng ở cuối câu, Hồ Chí Minh đã thể hiện thành công sức mạnh to lớn to lớn của đội quân du kích ta. Việc sử dụng các động từ mạnh, đặc biệt là dấu chấm lửng lặp lại chính xác đến tròn cuối đã giúp Bác không phải dùng nhiều ngôn ngữ, nhiều hình ảnh, nhiều chi tiết mà vẫn diễn tả được quá trình đó một cách sinh động, đầy đủ. Sự hình thành và phát triển của đội quân du kích – một trong những lực lượng chủ lực đã góp phần quan trọng vào các cuộc tiến công và phòng ngự của ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Dấu chấm lửng cuối bài thơ còn giúp Bác tô vẽ hình ảnh một đội quân du kích sẽ còn lập nhiều chiến công trong tương lai và không ngừng lớn mạnh…
Trong bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu – ngọn cờ của thơ ca cách mạng đã có sự đối đáp rất tinh tế với người ở lại. Khi người đứng – người Việt Bắc ngạc nhiên hỏi rằng:
– Khi về anh có nhớ em không?
Mười lăm năm đầy nhiệt huyết và đam mê.
Tôi đã trở lại, nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Rồi người trở về – những cán bộ, kháng chiến trở về thủ đô trả lời rằng:
– Tiếng ai thiết tha gần rượu
Bực trong bụng, đi không nghỉ
áo xẻ màu chàm
Chúng tôi nắm tay cô ấy, chúng tôi không biết phải nói gì…
Dấu chấm lửng trong câu “Nắm tay nhau biết nói gì hôm nay…” là một đỉnh cao đặc sắc trong hình thức nghệ thuật của lời đối đáp trên. Đứng trước hai câu hỏi thể hiện sự lo lắng, phiền muộn của đồng bào Việt Nam, người cán bộ về nước đã trả lời bằng tình cảm chân thành nhất. Trạng thái xót xa, xúc động đến nghẹt thở được cô đọng ở dòng cuối câu thơ rồi lấp đầy bằng dấu ba chấm.
Hóa ra, “biết nói” không có nghĩa là không có gì để nói, mà là có rất nhiều điều để nói nhưng không thể nói hết. “Nói gì đây” không phải là sự lạnh nhạt, thờ ơ, vô cảm trước tình cảm thủy chung của người đi chơi, mà là chất chứa nhiều cảm xúc muốn nói nhưng không thể vì xúc động mà nghẹn ngào. trong tình thế “chia ly”. Trong một bài thơ khác của Tố Hữu, bài “Chim sơn ca xa” in trong tập “Đến và tôi”, ở khổ thơ đầu, tác giả đã sử dụng dấu chấm lửng kép:
Nhiều đêm trằn trọc… tiếng còi xa
Gọi tàu vào, gọi tàu ra
Tôi nghĩ rằng tôi đang ở trên một chuyến tàu mới
Vào buổi sáng, chạy đến một nhà ga…
Sau “những đêm trằn trọc…” là dấu chấm lửng diễn tả một khối cảm xúc không dễ diễn tả. Và cũng từ sự im lặng đó, một tiếng “huýt xa” mới bất ngờ vang lên. Dấu chấm lửng như một gạch ngang giữa hai cung bậc buồn, vui, lo lắng và niềm tin… Dấu chấm lửng cuối đoạn mở ra những suy ngẫm mới về ý nghĩa cuộc đời, về lẽ đời:
Làm từ gạo thơm
Rộn ràng tiếng chim hót đầu chiều
Làm gạch lát đường quê mát
Ba ba, ba âm không đợi lâu.
Và “Cứ đi… cho đến khi tắt thở/ Biết đâu ngày ấy sẽ vui như trẩy hội/ Bạn sẽ lại đông vui và trẻ trung hơn”.
Như vậy, dấu chấm lửng trong các trường hợp trên nhằm bộc lộ tình cảm, cảm xúc và những tình cảm không thể diễn đạt bằng lời, không thể diễn đạt bằng lời.
Ngoài việc dùng dấu chấm lửng để bộc lộ tâm trạng, nhiều nhà thơ còn dùng nó để bộc lộ một ý tứ tế nhị không thích hợp để nói trực tiếp hay nói thật. Ở thời điểm đó, các nhà thơ đã sử dụng dấu chấm lửng một cách tài tình và tinh tế đến mức có thể nói hiệu quả diễn đạt vượt ra ngoài tác dụng đơn thuần của loại dấu câu này. Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ vận dụng thành công dấu chấm lửng ở khía cạnh trên. Trong bài thơ Chờ nhau có một cặp lục bát:
Tôi nghe họ nói mong manh
Có vẻ như họ biết chúng tôi… nhau.
Dấu chấm lửng trong trường hợp này được sử dụng một cách kỳ diệu. Cô đã lột tả được cảm giác rụt rè, rụt rè của người con gái khi đối diện với người mình yêu. Diễn biến tâm trạng và hành động nói ngập ngừng đó được bộc lộ một cách tinh tế qua từng dấu chấm lửng. Tác giả đã không viết “Họ dường như biết rằng chúng tôi yêu nhau”. Tại sao lại là cô ấy?
Nếu bạn sử dụng từ “yêu” và thậm chí không sử dụng dấu chấm lửng sau từ “chúng tôi” thì rõ ràng những cảm xúc tinh tế trong tình yêu sẽ không thể che giấu được. Sau đó, nó rất lộ liễu, rất ngẫu nhiên. Và cũng đúng với bản chất, tình cảm của người phụ nữ Việt Nam. Và trong trường hợp này dấu chấm lửng có giá trị hơn bất cứ từ nào khác, nếu không thì không thể có từ ngữ nào để diễn tả hết sự biểu cảm, biểu cảm mà tình tứ của cô gái.
Trong bài thơ “Giá như” nhà thơ Anh Ngọc cũng sử dụng dấu chấm lửng cuối bài thơ như một ẩn ý sâu xa. Nhà thơ đã viết:
Giá như hai người… trong quá khứ
Chán ngay khi chúng tôi gặp nhau…
Trong một cặp lục bát, nhà thơ đã hai lần sử dụng hình elip, hẳn là một dụng ý nghệ thuật rõ ràng. Trước đó, đọc bài thơ, người đọc ít nhiều cảm nhận được sự phủ định “giá như” cuộc gặp lại của người trữ tình với người yêu cũ ít nhiều là một lời khẳng định:
Giá như ngày ấy đừng gặp nhau
Không ánh mắt, không nụ cười
Trùng hợp hai mặt người
Dửng dưng giữa dòng đời hờ hững.
Nhưng điều này được thể hiện rõ nhất ở sáu đến tám dòng cuối bài, nhất là ở cách sử dụng dấu chấm lửng một cách tinh tế. Nhân vật trữ tình – nhà thơ “giá như” nhưng chỉ cần bỏ dấu chấm lửng giữa dòng thơ cũng đủ để thấy sự ngập ngừng và chấp nhận cuộc “gặp gỡ” này. Và đó chắc chắn là sự nuối tiếc, là mong ước ngọt ngào… của nhiều người khi yêu. Dấu chấm lửng giúp người viết lời không phải nói những điều khó nói mà người đọc vẫn ngầm hiểu.
Tất nhiên, nếu không có chuyện gì xảy ra như “giá như” ấy, chắc chắn cuộc sống sẽ trở nên vô vị. Chính hiệu ứng ngoại từ ở dòng cuối đã làm cho bốn bài thơ tình lẽ ra phải buồn vì sự chia xa, nhưng đọc lại không khỏi bùi ngùi. Cách nhẹ nhàng nói lời tạm biệt. Và dấu chấm lửng cuối cùng phải chăng là sự tiếp nối của bao nhiêu “giá như” khác mà nhà thơ muốn nói? Hay đó là sự nhẹ nhàng chấp nhận quy luật muôn thuở trong tình yêu “Tình đến, tình đi/ Biết đâu chẳng thể làm gì”.
Một tác dụng rõ rệt khác của dấu chấm lửng cũng thường được các nhà thơ sử dụng, đó là làm giãn nhịp (chậm lại) của câu thơ để chuẩn bị cho sự xuất hiện của một từ chỉ nội dung bất ngờ, thú vị hoặc một sự xuất hiện hài hước, trào phúng khác. Bài thơ “Học quên…nhớ” của Đặng Vương Hưng là một minh chứng sống động cho điều này. Bài thơ ngay cái nhan đề đã thể hiện rõ dụng ý gây bất ngờ cho người đọc. Từ “nhớ” sau dấu chấm lửng thực sự gây bất ngờ cho người đọc bởi nó có ý nghĩa đối lập với từ “quên” đứng trước. Và từ nhan đề thú vị ấy, ta có thể thấy hàng loạt dấu chấm lửng được sử dụng trong bài tạo nên một hàm ý sâu xa, ý nghĩa đối với người tiếp cận bài thơ:
Học quên để… nhớ nhiều
Học cách ghét để… đánh giá cao nó.
đẹp
Giờ tôi còn lại một giấc mơ
Phấn đấu cho cuộc sống hàng ngày… con người thanh tao.
Ở đây, nhà thơ đã khéo léo sử dụng các cặp từ trái nghĩa (quên/nhớ; giận/ngọt; mộng/thế…) qua hệ thống dấu chấm lửng để tạo nên những mệnh đề tưởng chừng như phủ định nhưng ngẫm lại thì chúng lại có quan hệ mật thiết với nhau. . Thế là những phạm trù triết học khô khan được thể hiện một cách nhẹ nhàng mà hiệu quả trong một bài thơ. Hãy học cách quên đi những điều tiêu cực, những hận thù, tham lam, thù hận và lừa dối để có thể “nhớ” về nhiều điều tốt đẹp khác đang hiện hữu trong cuộc đời mình…
Người đọc không chỉ bất ngờ mà quan trọng hơn là có thời gian dừng lại để suy ngẫm về những mặt đối lập tưởng chừng như phi lý trong cuộc sống. Những triết lý nhân sinh sâu sắc như được tô đậm, tô điểm bởi… dấu chấm lửng: “Học để… ngu/ Học để già ở… ngây thơ”.
Cũng nhờ vẻ đẹp của những dấu chấm lửng này mà nhịp thơ trở nên chậm rãi, người đọc có thể ngâm nga một cách thoải mái để suy nghĩ về điều nhà thơ muốn bày tỏ, gửi gắm. Có thể nói “Học quên để… nhớ” như một cô gái đẹp. Cái làm quen, hấp dẫn, thu hút chúng ta chính là vẻ đẹp của hình khối – hình elip. Và ít nhiều chính điều đó cũng tạo nên vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp nội dung của bài thơ để nó có thể… sống lâu trong lòng người đọc. Và đúng là không thể không “mê mẩn” với những vần thơ như câu đối cuối cùng của cô gái xinh đẹp ấy “Học đi học khóc cho… cười/ Để vô tình quên đi những người say đắm…”.
Không thể kể hết bao nhiêu ánh sáng từ vẻ đẹp của hình elip được sử dụng trong bài thơ, chỉ biết rằng vẻ đẹp đó có thể là vô hạn. Bất kỳ nhà thơ nào trong một khoảnh khắc cảm hứng nào đó đều có thể “bắt lấy” ánh sáng ấy và tự do lay động trái tim người đọc.
Dựa theo
Cảm ơn bạn đã đọc bài viết Vẻ đẹp của dấu chấm lửng trong thi ca . Đừng quên truy cập Chaolong TV kênh trực tiếp bóng đá số 1 Việt Nam hiện nay để có những phút giây thư giãn cùng trái bóng tròn !